Giải Thích Các
Điển Tích, Thành Ngữ, Ca Dao và Tục Ngữ
BBT: Để giúp các bạn trẻ hiểu trọn vẹn các điển tích, thánh ngữ hoặc tục ngữ thường được dùng trong trao đổi hằng ngày cũng như trong sách báo, BBT giới thiêu bộ sưu tập “Giải Thích Các Điển Tích, Thành Ngữ, Ca Dao và Tục Ngữ” để các bạn tham khảo. Các tài liệu trong bộ sưu tập này được tổng hợp lại từ các trang web điện tử http://e-cadao.com, http://www.quehuong.org.vn
Đã đăng :
Phần 1 –
Phần 2 –
Phần 3Phần 4
1) Đa Nghi Như Tào Tháo
Ở nước Trung Hoa thời Tam Quốc có viên quan Thừa tướng nổi tiếng đa nghi họ Tào, tên Tháo. Hắn đa nghi đến mức không tin bất kì ai trên đời dù người đó là tướng có tài hay người lính đã hết lòng phục vụ và bảo vệ hắn. Có một lần Tào Tháo đem quân đi chinh phạt nhà Thục. Quân Thục chống trả quyết liệt và cố thủ vững chắc. Cuộc chiến kéo dài, quân Tào mệt mỏi, tiến thoái lưỡng nan. Thấy tình thế khó nuốt được Thục, Tào bèn ban mật khẩu “Kê cân”. Một tướng giỏi của Tào là Dương Tu nghe lỏm được, liền truyền lệnh cho quân sĩ thu xếp hành trang, chuẩn bị rút. Thấy lạ, quân tả hữu liền hỏi:
– Tại sao tướng quân lại cho quân rút sớm vậy?
Dương Tu đáp:
– Quan Thừa tướng đã ban mật khẩu “Kê cân” (nghĩa là gân gà) ý muốn nói ăn không được, vứt thì tiếc. Vậy việc rút quân chỉ nay mai thôi.
Biết chuyện này, Tào Tháo khép tội Dương Tu là tiết lộ việc quân cơ, đem ra chém đầu. Nhưng đó chỉ là cái cớ.
Cái chính là Tào Tháo biết Dương Tu là tướng có tài, chuyện gì cũng đoán biết được trước nên phải tìm cách hạ sát để trừ hậu họa.Tào Tháo còn là người đa mưu, nhưng vẫn rất sợ quân lính làm phản và bọn thích khách ám hại. Để đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra, hắn ra lệnh: Đêm ta ngủ thường mơ nơi trận mạc, tung hoành đao kiếm, đừng ai đến gần mà thiệt mạng. Một hôm, đang ngủ say, bỗng hắn trở mình, chăn rơi xuống đất. Tên lính hầu canh cửa thấy vậy bèn rón rén đến bên giường nhặt chăn lên đắp lại cho chủ tướng. Tào Tháo vùng phắt dậy rút ngay gươm đã thủ sẵn ở đầu giường chém người lính rồi lại nằm ngủ tiếp. Hành động chém giết tàn bạo của y không chỉ là lời răn đe khắc nghiệt đối với quân lính mà còn bộc lộ bản chất hay ngờ vực, hay nghi kị đến mức điển hình của một tính cách.
Từ đó, tính cách của y đã được khái quát gọn trong năm chữ: Đa nghi như Tào Tháo.
2) Dở Dở Ương Ương
Trong tiếng Việt, khi nói về những người có tính khí không bình thường, không ra khôn mà cũng chẳng ra dại, người ta nói đó là người “dở dở ương ương”: “Khôn cho người ta sợ, dại cho người ta thương, dở dở ương ương cho người ta ghét” (tục ngữ ).
Cũng như nhiều thành ngữ khác trong tiếng Việt, thành ngữ dở dở ương ương được hình thành bằng ghép láy hai từ dở và ương đi liền nhau.
Nếu chấp nhận rằng có một sự chuyển nghĩa từ dở trong khế dở (khế không ra ngọt mà cũng không ra chua) đến dở trong dở người từ ương trong ổi ương đến ương trong ương gàn, ương ngạnh v.v… thì cũng có thể chấp nhận có hai cách giải thích của thành ngữ dở dở ương ương.
Với nghĩa gốc, dở là ở trạng thái chưa xong, chưa kết thúc; còn ương biểu thị cái trạng thái của trái cây gần chín, cái trạng thái chưa chín hẳn, nhưng cũng chẳng còn xanh nữa! Có thể nói dở và ương đều có một nét nghĩa chung là ở trạng thái chưa kết thúc của quá trình, ở trạng thái nửa vời, không ra thế nọ mà cũng chẳng ra thế kia. Từ đó, với nghĩa bóng, nghĩa rộng, thành ngữ dở dở ương ương thường được dùng để biểu thị tính cách của những người khôn chẳng ra khôn mà dại chẳng ra dại. Dĩ nhiên cái tính cách, phẩm chất này lại thường thể hiện ở cách nói năng, cách ứng xử, thí dụ:
“Ấy cũng chỉ vì trên đầu có hai thứ tóc nên mới ăn nói dở dở ương ương như thế”. (Tạp chí văn nghệ 1-1967).
“Gọi là Đạo Khùng vì ông dở dở ương ương lúc cười nói huyên thuyên, lúc im hơi lặng tiếng, khi thì đon đả hỏi chuyện khách viếng thăm, vui vẻ trả lời các câu hỏi, lúc lì lì hoặc gắt gỏng, xua đuổi người đến thỉnh cầu như xua tà” (Khoa học bịp).
Với nghĩa chuyển, dở được dùng để biểu thị tính khí không bình thường, được biểu hiện bằng những hành vi ngớ ngẩn, còn ương là “gàn”, cứ theo ý mình, không chịu nghe ai” (Từ điển tiếng Việt, 1988). Như vậy thì việc giải thích dở dở ương ương là thành ngữ biểu thị tính cách của con người không bình thường, khôn chẳng ra khôn, dại chẳng ra dại cũng là cách giải thích có thể chấp nhận được. Trong trường hợp này, thì nghĩa của dở dở ương ương được hình thành từ nghĩa chuyển của dở và ương, chứ không phải từ nghĩa gốc của hai từ này.
3) Môn Đăng Hộ Đối
Trong chế độ phong kiến, đôi lứa kết duyên, nên vợ nên chồng đâu chỉ vì tình yêu của họ, đâu phải vì “đôi lứa xứng đôi”. Cái quan trọng, cái cốt lõi trong hôn nhân thời ấy là môn đăng hộ đối, tức là hai gia đình thông gia phải có sự ngang nhau về nhà cửa, của cải, và tương đương nhau về địa vị xã hội:
Phú ông một hôm mắng em và bảo: “Bao nhiêu đám môn đăng hộ đối không lấy, phải chăng muốn lấy con nhà chùa?” (Nguyễn Đổng Chi. “Kho tàng chuyện cổ tích Việt Nam”).
Môn đăng hộ đối trước hết là tương xứng về nhà cửa, gia thế. Các yếu tố môn, hộ có nghĩa là “cửa, nhà”, các yếu tố đăng, đối được tách ra từ tổ hợp đăng đối với nghĩa là “ngang bằng, đối hợp nhau”. Vậy là, từ chỗ so sánh rất cụ thể về cái nhà, cái cửa, thành ngữ môn đăng hộ đối được mở rộng nghĩa để chỉ gia thế, địa vị xã hội giữa hai bên. Đôi lứa, duyên số phù hợp nhau, xứng đáng kết tóc xe tơ chỉ khi địa vị gia đình họ ngang bằng nhau:
Xã hội phong kiến không chấp nhận những câu chuyện tình giữa các đôi lứa thuộc đẳng cấp chênh lệch nhau:
“Một công tử con quan tể tướng lại lấy một cô gái lái đò làm vợ thì còn đâu là môn đăng hộ đối!” (“Giai thoại Thăng Long”).
Biến thể của thành ngữ môn đăng hộ đối là môn đương hộ đối. Dạng thức này có ý nghĩa và cách dùng tương tự như môn đăng hộ đối.
4) Cả Vú Lấp Miệng Em
Nhiều bà mẹ, khi nghe trẻ khóc, không cần dỗ dành, vỗ về, nựng nịu gì cả mà lập tức dùng bầu vú sữa sẵn có trên mình để lấp miệng đứa bé. Nhờ được bú tí mẹ, đứa trẻ không còn khóc nữa. Mới hay là, với đứa bé, bầu vú của mẹ có thế mạnh và ứng nghiệm trông thấy. Cái hiện tượng bình thường mà chúng ta vẫn gặp, vẫn thấy hàng ngày được dân gian khai thác và khái quát thành câu cả vú lấp miệng em để chỉ hiện tượng dùng quyền lực, thế mạnh của mình để chèn ép, lấn át kẻ khác.
Về xuất xứ và ý nghĩa chung của thành ngữ cả vú lấp miệng em như thế là đã rõ. Tuy nhiên, ở thành ngữ này, chúng ta cần quan tâm đến
một số điểm khá lý thú về mặt chữ và nghĩa.Vú ở đây là bầu sữa mẹ, được dùng để biểu trưng cho thế mạnh, cho sự lợi thế, trong khi đó em vừa là từ xưng gọi em bé, vừa là từ biểu trưng cho người cấp dưới, người yếu thế hơn.
Miệng trong thành ngữ đang xét không chỉ là miệng ăn, miệng bú mà còn là miệng nói. Vì thế, miệng được biểu trưng cho lời nói, cho ý kiến, đề nghị, phê bình phản đối của người khác đối với người trên.
Còn lấp là hành động che, bịt lại, không cho lộ ra, không cho phát ngôn, không cho nói.
Ở trong thành ngữ này, riêng từ cả là ít giá trị biểu trưng nhất, nhưng lại hơi khó hiểu. Nhiều người đã hiểu cả trong cả vú lấp miệng em có chức năng chỉ gộp, chỉ tổng thể với nghĩa là “tất cả, toàn bộ”, như trong cả nhà, cả bản, cả con gà,… Nhưng cách hiểu này là không chính xác. Thực ra, cả trong thành ngữ này có ý nghĩa là “to, lớn”, như nghĩa của cả trong đũa cả, cả lưng rộng háng, cả hơi lớn tiếng,… Sự giao kết nghĩa của các yếu tố, nhất là nghĩa biểu trưng của chúng đã tạo thành câu cả vú lấp miệng em nhằm hàm chỉ một thói xấu của người đời là hay ỷ vào thế lực, sức mạnh để chèn ép, lấn át người kém mình về thế lực và địa vị trong cuộc sống.
5) Sư Tử Hà Đông
Thoạt nghe, không ít người nghĩ rằng, trong nội dung câu thành ngữ “Sư tử hà Đông” có điều gì đó liên can đến đất Hà Đông xưa của Việt Nam. Chuyện thực lại không phải như vậy. Chẳng ra là chuyện “râu ông nọ cắm cằm bà kia”.
Số là, ở đất Vĩnh Gia bên Trung Quốc đời nhà Tống có một người đàn ông tính nết thất thường, họ Trần tên Tháo, tự là Quý Thường. Lúc còn nhỏ, Tháo rất thích chơi trò đấu kiếm và nghe kể chuyện về các anh hùng hảo hán một cách say mê, khâm phục.
Lớn lên Tháo thích lân la đến bên các chí sĩ giang hồ để học hỏi các môn võ nghệ và cùng họ ngao du nay đây mai đó. Tháo cũng tự liệt mình vào cùng một hạng với những bậc chí sĩ kia và lúc nào cũng tỏ ra sẵn lòng làm việc nghĩa, giúp bạn, cứu người.
Lạ thay vừa bước sang tuổi trung niên Trần Tháo bỗng thay tính đổi nết. Tháo chán ghét cuộc sống giang hồ và lạc vào văn chương, chữ nghĩa và lui về sống ẩn dật. Trần Tháo thường cùng Tô Thức luận bàn về bút pháp và sự thành bại của cổ kim, rất thích đạo Phật, đã từng ăn rau, ở chùa, không màng gì đến thế sự. Vợ Tháo là Liễu Thị, tính hung hãn, hay ghen. Mỗi lần Tháo mở tiệc mời khách, nếu có ca kỹ đến hát xướng mua vui thì Liễu Thị ở nhà trong, máu ghen nổi lên, lấy gậy đánh sàn sạt vào tường, gầm thét om sòm, khách không chịu nổi phải bỏ ra về. Tô Thức nhân đấy có thơ đùa Trần Tháo rằng:
Đánh ghen -tranh Đông Hồ
Thùy tự Long Khâu cư sĩ hiền
Đàm không thuyết hữu dạ bất miên
Hốt văn Hà Đông sư tử hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiênDịch nghĩa:
Ai hiền như cư sĩ đất Long Khâu
Bàn về thuyết không thuyết có của nhà Phật đêm không ngủ
Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống lên
Gậy chống rơi khỏi tay, lòng bàng hoàng quên phắt đi hếtCâu thơ trên dựa theo câu thơ của Đỗ Phủ (nhà Đường)
Hà Đông nữ nhi thâm tính Liễu
(người con gái đất Hà Đông tên Liễu)Tô Thức mượn chữ hà Đông để chỉ Liễu Thị, vợ Tháo. Còn sư tử hống là tiếng Phật dùng để nói về sự uy nghiêm của Phật tổ,
nói giọng thuyết pháp của Phật âm thanh chấn động thế giới như sư tử gầm. Nay Trần tháo thích đàm luận đạo Phật, Tô Thức bèn mượn tiếng nhà Phật để đùa, chỉ cái tính hung hãn hay ghen của Liễu Thị.Từ tích trên, trong tiếng Việt, thành ngữ “sư tử Hà Đông” nhằm ám chỉ những người phụ nữ có tính ghen tuông dữ tợn, khi nổi máu tam bành có thể làm cho các đức ông chồng kinh hồn, táng đởm khiến bao dũng khí của giới mày râu tiêu tan thành mây khói cả.
6) Chạy Như Cờ Lông Công
Cờ là biểu tượng cho một quốc gia, một dân tộc, một tổ chức, một ngành nghề, thậm chí còn là tín hiệu cho một mệnh lệnh. Cờ thường được làm bằng vải nhưng cũng có khi bằng lông chim, lông thú, đôi khi còn được làm bằng cành cây giống như cờ bằng bông lau của Đinh Bộ Lĩnh ngày trước.
Cờ lông công trong thành ngữ “chạy như cờ lông công” là cờ làm bằng lông con công. Đây là loại cờ hiệu của những người lính trạm xưa kia, thường dùng khi chạy công văn hỏa tốc.
Ngày nay, ngoài việc truyền đạt các mệnh lệnh, công văn bằng các phương tiện thông tin vô tuyến, hữu tuyến, người đưa tin còn được sử dụng các phương tiện giao thông khác như máy bay, xe hơi, xe lửa …
Nhưng ngày xưa, công việc này chỉ được thực hiện nhờ sức người và sức ngựa. Vì vậy, nhà nước phong kiến mới đặt ra các trạm và tuyển mộ các loại lính trạm, phu trạm. Từ trạm nọ đến trạm kia là một cung đường.
Thông thường, người lính trạm khi chạy công văn hỏa tốc phải vượt hai đến ba cung đường trong một ngày.
Người đời nhìn thấy cờ hiệu lông công của những người lính trạm ở khắp các nẻo đường của đất nước.
Bao giờ họ cũng vội vàng, tất tả, người chạy đi, kẻ chạy lại, cả người cả ngựa đều đẫm mồ hôi. Công văn vừa chuyển đi lại có công văn khác đến. Sự đan chéo, liên tục của các công văn, mệnh lệnh tạo nên sự đan chéo, dồn dập của những lá cờ hiệu lông công. Vì vậy, “chạy như cờ lông công” trước hết được hiểu là “chạy rối rít, chạy loạn xạ”.Nhưng có lẽ cũng từ một thực tế là những người mang cờ hiệu lông công mặc dù chạy ngược xuôi rối rít nhưng chẳng phải là để vận chuyển hàng hóa nặng nhọc gì. Với con mắt người đời, đấy là một việc làm không cần thiết. Còn tính khẩn cấp của công văn lại cũng chẳng liên quan gì đến họ.
Có lẽ vì lẽ đó mà thành ngữ ”chạy như cờ lông công” còn có một sắc thái nghĩa nữa là “chạy rông, chạy rối rít, chạy không đạt kết quả gì”.
7) Già Kén Kẹn Hom
Có một lời nhắc nhở, các chàng trai cô gái đến tuổi dựng vợ gả chồng hãy kén chọn một vừa hai phải thôi kẻo tình duyên lỡ làng, ế ẩm để đến nỗi phải than vãn:
“Ai ngờ già kén kẹn hom, cao chẳng đến, thấp chẳng tới”
(Phan Văn Ái, “Lẳng lơ phú”)Trở về với các vùng trồng dâu nuôi tằm, kéo tơ dệt vải, chúng ta được nghe cách lý giải của đồng bào ở đây về thành ngữ “già kén kẹn hom” hết sức lý thú. Tuy vậy, ở ngay cả trong các làng nghề này thì cách lý giải của họ cũng không thống nhất. Có ít nhất là hai cách hiểu sau đây:
1.Khi tằm chín nhả tơ làm thành kén, con tằm hóa thành nhộng nằm gọn trong kén tơ đó. Nếu để kén lâu ngày thì nhộng hóa thành con ngài (con bướm) cắn thủng kén bay ra, đẻ trứng. Loại kén “già” này khi kéo tơ thì tơ chẳng róc ra được (tơ bị kẹn). Già kén kẹn hom là như vậy. Song, ở cách hiểu này, người ta chẳng giải thích được từ hom là gì. Hom vẫn là một ẩn số.
2. Vẫn là người thợ thủ công nghề tơ tằm cho biết, trong nghề tằm tơ có một công đoạn là dùng né cho tằm làm kén. Người ta đan những thanh tre, nứa thành phên có chân đứng tựa như tấm liếp nhưng đan thưa tạo ra những ô trống hình vuông để cài rơm vào cho tằm làm kén. Đó là cái né. Làm nghề tằm tơ “sẵn nong sẵn né là thế”! còn những thanh tre, thanh nứa dùng để đan né được gọi là hom như nghĩa của hom trong hom gianh, hom sắn, hom dâu… Tằm chín được thả trên né để tùy ý chọn nơi nhả tơ kết kén. Nếu kén trên né mà to, mật độ lại dày (già kén) thì sẽ kẹt vào hom, khó gỡ (kẹn hom). Già kén kẹn hom vốn nghĩa là như vậy. Từ kẹn trong thành ngữ này có thể là dạng thức cổ của kẹt hay nghẹt chăng?. Vì trong tiếng Việt thấy có sự tương ứng về âm (âm đầu k –ng và âm cuối t-n) và nghĩa giữa kẹn với nghẹt, kẹt với nghẹt, nghẹn…
Cách lý giải nguồn gốc và nghĩa của thành ngữ “già kén kẹn hom ” như vậy là thỏa đáng có sức thuyết phục hơn cả vì nó phù hợp với quy tắc tương hợp ngữ nghĩa và đối ứng trong cấu trúc của thành ngữ. Đó là sự tương hợp và đối ứng giữa già (tính từ) với kẹn ( tính từ), kén (danh từ) với hom (danh từ).
Như vậy từ câu chuyện con tằm kén tơ mà người Việt Nam đã liên hệ đến chuyện con người với con đường tình duyên của họ. Đối với nghề nuôi tằm để cho kén to bị kẹt chặt với hom thì làm sao tháo gỡ được ? Cũng vậy, môt ai đó cố tình kén chọn, kỹ tính quá để “quá lứa” lâm vào tình trạng kẹt giữa các thang giá trị kén lựa “cao chẳng đến, thấp chẳng tới” thì cũng khốn và không thể nào tháo gỡ ra khỏi cảnh lỡ làng, ế ẩm.
8) Cáo Mượn Oai Hùm
Người Việt Nam ta thường nghe thành ngữ “Cáo mượn oai hùm” hoặc “Cáo đội lốt hùm”, là do thành ngữ “Hồ giả hổ uy” của Tàu.
Thời Chiến quốc, vua nước Sở là Hoàn Vương lấy làm lạ rằng tại sao nhân dân miền Bắc Trung Hoa lại sợ hãi một vị đại tướng tên Chiêu Hề Tuất như vậy. Sở Hoàn Vương bèn hỏi các đại thần trong triều xem lý do là tại sao.
Trong số đại thần, có một người tên là Giang Ất đã mượn một câu chuyện ngụ ngôn để giải thích cho Sở Hoàn Vương như sau:
– Tại một khu rừng kia, một con hổ bắt được một con cáo. Con cáo tức thì làm bộ dọa nạt con hổ, nói rằng nó là sứ giả do trời sai xuống để thống trị muôn loài thú, nếu hổ xâm phạm đến nó tất là sẽ bị trời trừng phạt. Nếu hổ không tin, hãy đi theo nó, để xem muôn loài thú sợ hãi nó như thế nào.
Con hổ nghe lời nói của con cáo tinh khôn, thấy cũng có lý, bèn bằng lòng theo sau để xem có đúng như lời cáo nói không.
Quả nhiên, suốt trên đường đi, muôn loài thú thấy bóng dáng con cáo tới đâu, cũng đều hoảng sợ chạy hết. Con hổ đâu biết là muôn loài thú bỏ chạy, chính là vì sợ hổ, đâu phải vì sợ cáo.
Nay binh quyền của chúa công được trao trả cho Chiêu Hề Tuất, nhân dân phương Bắc sợ hãi là sợ binh lực của chúa công chứ đâu phải sợ Chiêu Hề Tuất.
Sự tích trên đây chép trong Quốc sách. Ý Giang Ất muốn so sánh con cáo trong truyện với Đại tướng Chiêu Hề Tuất, so sánh nhân dân phương Bắc với muôn loài, và so sánh con hổ với Sở Hoàn Vương, để giải thích rằng, sở dĩ nhân dân phương Bắc sợ hãi Chiêu Hề Tuất chỉ vì Chiêu Hề Tuất có được binh quyền do Sở Hoàn Vương trao cho mà thôi. Như vậy nhân dân phương Bắc sợ là sợ Sở Hoàn Vương, chứ không phải là sợ Chiêu Hề Tuất, cũng như muôn loài thú sợ là sợ con hổ chứ không phải sợ con cáo.
Từ sự tích trên, người đời sau đã rút ra thành ngữ “Hồ giả hổ uy” (con cáo giả cái oai con cọp) để nói về người dựa vào quyền thế địa vị của người khác mà lên mặt, hoặc bắt nạt người cô thế .
Có Bài Khác :
Cáo thì chỉ “bắt nạt” được gà, còn hùm (hổ, cọp) là chúa tể của muôn loài!. Hùm giỏi giang ở đâu thì chưa biết nhưng cái khoản tục ăn thì không ai bằng (ăn như hùm) và gian ác thì cũng đáng được xếp hạng “miệng hùm nọc rắn”. Vô phúc con vật nào, kể cả con người, để nó vồ được thì chỉ có nước mà về …chầu tiên tổ. Vậy nên trong tiếng Việt đã sinh ra câu “cáo mượn oai hùm” để chỉ hạng người luôn mượn thế kẻ mạnh, nấp dưới ô quyền lực đi hù dọa, lòe bịp người khác hoặc lấy đó làm lá chắn để thỏa sức lộng hành.
Thành ngữ này vốn bắt nguồn từ một câu chuyện kể về sự gian ngoan, ma lanh của cáo đã khéo uốn ba tấc lưỡi để lừa “thầy hùm”, con hùm thì đúng là “to đầu mà dại” (!)
…Có một còn hùm đói mồi, đang lang thang trong rừng kiếm ăn thì gặp ngay con cáo. Hùm sướng rơn và chắc mẩm phen này được bữa chén no say. Nhưng con cáo gian ngoan đã nói ngay với hùm rằng: “Này, cái ông hùm, ông hổ kia ơi! Ông đừng có mà ăn thịt tôi. Thượng đế đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Ông mà ăn tôi là làm trái ý của thượng đế! Không tin, ông cứ đi đằng trước, tôi đi đằng sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ?”. Và Hùm đã làm theo. Quả nhiên, chúng đi đến đâu, mọi thú đều chạy tán loạn. “Sự thật”, đó đã làm cho hùm tin lời cáo và đương nhiên cáo đã thoát chết! Hùm đâu biết rằng những con vật kia sợ mình, sợ từ cái bóng của mình, chứ đâu có sợ cáo!…
Trong dân gian bên cạnh thành ngữ “cáo mượn oai hùm” còn có cách nói “cáo đội lốt hổ uy” với nghĩa tương tự nhưng ít dùng.
Trong tiếng Việt, sự “tinh khôn, ranh mãnh, quỷ quyệt” đã trở thành một trong những nghĩa phổ biến của từ “cáo”. Ví dụ : “Thằng cha ấy cáo lắm”
Đúng là “Những phường cáo mượn oai hùm ghê thay”
9) Chết Đứng Như Từ Hải
Hình tượng Từ Hải trong truyện Kiều của Nguyễn Du đã để lại cho nhân dân ta những ấn tượng sâu sắc.
Đây là một bậc trượng phu khác người. Cái diện mạo “râu hùm, hàm én, mày ngài, vai năm tấc rộng thân mười thước cao”
đã thể hiện một con người có sức mạnh vô song. Hơn thế nữa Từ là kẻ ngang tàng, “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”.
Không chịu luồn cúi triều đình phong kiến, Từ đã dấy binh khởi nghĩa.
Với tài thao lược “gươm đàn nửa gánh non sông một chèo” chàng đã lập nên một vương quốc, một triều đình riêng.Trong con mắt của triều đình phong kiến chính thống, Từ là kẻ phiến loạn, là giặc mang tội bất trung.
Tội ấy đáng chém đầu. Nhưng với một vương triều mạnh, với một con nguời tài giỏi như Từ, đánh đổ đâu dễ dàng.
Chúng nghĩ ngay kế mua chuộc và dụ hàng. Nhà vua cử tên tổng đốc trọng thần “mặt sắt đen sì” Hồ Tôn Hiến làm nhiệm vụ này.
Hồ Tôn Hiến nghĩ ngay ra diệu kế. Bấy giờ, nàng Kiều sau bao năm lưu lạc đã thành vợ của Từ Hải.
Hồ Tôn Hiến dùng vàng bạc mua chuộc Kiều mong nàng tìm cách thuyết phục Từ Hải quy hàng triều đình.
Cả tin lại chán ghét cảnh bèo dạt mây trôi, Kiều đành nhận lời. Bởi nghe lời Kiều, Từ Hải đã quy hàng.
Những tưởng triều đình sẽ ban thưởng chức tước như đã hứa, nhưng tráo trở thay nhân cơ hội này, Hồ Tôn Hiến đã giết Từ Hải.
Người anh hùng đã chết, chết trong sự oan ức. Từ chết đứng “trơ như đá, vững như đồng, ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng dời”.Từ hình ảnh chết đứng của Từ Hải như vậy, trong tiếng Việt xuất hiện thành ngữ “chết đứng như Từ Hải”.
Thành ngữ này còn một biến thể khác là “như Từ Hải chết đứng”. Về ý nghĩa, thành ngữ “chết đứng như Từ Hải” biểu thị trạng thái đứng đờ ra của con người khi bị tác động đột ngột, không ứng xử kịp, nhất là trước những niềm vui nỗi buồn, sự đau khổ bất ngờ.
10) Nói Toạc Móng Heo
Nói toạc móng heo là nói thẳng, nói thật không úp mở quanh co.
Ý nghĩa chung của thành ngữ này là như vậy, song cơ chế nảy sinh ý nghĩa đó lại không đơn giản. Chúng ta đều biết, móng heo (móng lợn) là một loại sừng cứng bao bọc kín hết ngón chân lợn. Cái vỏ bọc bên ngoài vừa vững, vừa kín như vậy, hẳn là khó lòng biết rõ cái được bảo vệ ở bên trong. Vậy thì, muốn biết ngón chân heo chỉ có cách làm toạc móng. Quả nhiên, làm toạc móng heo, một mặt là làm mất cái che đậy bên ngoài, mặt khác làm bộc lộ rõ hoàn toàn phần bên trong của chân heo. Có lẽ vì thế, đã toạc móng heo với sự liên hệ ý nghĩa “làm mất cái vỏ bề ngoài, làm rõ cái bên trong”. Sự liên hệ này đã đưa vào trong nội dung ý nghĩa của thành ngữ hai nét nghĩa: nói không che đậy, nói trắng ra.
Thành ngữ nói toạc móng heo còn có biến thể là nói toạc móng lợn, song biến thể này ít được sử dụng.