Niềm tin Kitô giáo xuất phát từ một con người tên là Giê-su. Kinh Thánh thuật lại rằng Ngài đã bị quân Ro-ma hành hình bằng cách đóng đinh vào thập giá. Ngài đã chết. Cái chết của Ngài đã mang đến nỗi đau buồn cũng như thất vọng cho nhiều người vì họ không thể tin rằng một con người vừa tốt lành, vừa quyền năng như Ngài lại phải chết theo một cách thức nhục nhã như thế. Tuy nhiên, chính Kinh Thánh cũng cho biết là Ngài đã phục sinh từ cõi chết. Sự phục sinh của Ngài đã làm dấy lên không biết bao nhiêu điều lạ lẫm, mà cho đến nay, đã hơn hai ngàn năm trôi qua, người ta vẫn còn đặt câu hỏi về nó.
Thánh Phaolo đã nói rằng: “Nếu Đức Giê-su Kitô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả Đức Giê-su tin của ah em cũng trống rỗng … chúng ta là những người khốn khổ nhất trong mọi người.” (1Cr 15,14.19). Quả vậy, nếu Ngài không phục sinh, tôn giáo của chúng ta chỉ là một tôn giáo chết chóc, Đức tin của chúng ta chẳng để làm gì. Nếu Ngài không phục sinh, cuộc sống của chúng ta cũng sẽ hệt như các môn đệ ngày xưa, quanh năm suốt tháng chỉ biết chôn chặt mình trong những nỗi sợ hãi khôn nguôi, không dám đối diện với ai, chỉ biết buồn phiền và chán nản. Nếu Đức Giê-su không phục sinh, ta chẳng có lý do gì để sống tha thứ yêu thương, ta chẳng ngu dại gì hy sinh hay dành phần hơn cho người khác, ta chẳng hơi đâu để nỗ lực sống theo luân thường đạo lý, khuôn vàng thước ngọc hay những bài học khôn ngoan.
Nhưng Đức Giê-su có thật sự phục sinh không? Mà “phục sinh” nghĩa là gì? Nó có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Các trình thuật Tin Mừng nói gì về nó?
Cuộc thương khó và cái chết của Đức Giê-su chắc chắn đã khiến cho các môn đệ tưởng rằng mọi sự đã kết thúc. Mọi hy vọng mà họ có nơi vị thầy đầy quyền năng của mình đã tiêu tan. Họ thậm chí còn không tin vào những gì vừa xảy đến với Thầy. Chỉ mới hôm trước, Thầy vẫn còn được người ta đón tiếp nồng hậu khi tiến vào thành Giê-ru-sa-lem. Vậy mà chỉ trong thoáng chốc, mọi sự đã đảo lộn hoàn toàn. Thầy bị bắt, các môn đệ bỏ chạy hết. Họ sợ bị liên luỵ đến độ không dám nhận mình là môn đệ của Đức Giê-su. Mọi hy vọng, mọi tham vọng được “ngồi bên hữu bên tả” trong vinh quang bỗng vụt tắt. Tuy nhiên, đang khi các ông vì sợ hãi mà giam mình trong phòng tối thì có một tin lạ xảy đến. Các phụ nữ thuật lại với các ông là Đức Giê-su đã phục sinh. Buổi sáng ngày hôm ấy không chỉ là khởi đầu cho một ngày nhưng còn là khởi đầu cho một trang sử mới của cuộc đời các ông và cho cả Kitô giáo.
Nếu như các sách Tin Mừng đều có nét giống nhau khi tường thuật lời cuộc Thương Khó của Đức Giê-su, thì liên quan đến câu chuyện phục sinh, ta lại thấy có rất nhiều điểm khác biệt. Cả bốn Tin Mừng đều thuật lại việc các phụ nữ đã ra mồ chôn Đức Giê-su vào sáng sớm. Nhưng Marco (16,1) và Luca (24,10) thì nói đến ba người phụ nữ (dù ba cái tên không giống nhau hoàn toàn) trong khi đó, Mathêu (28,1) nói rằng có hai, và Gioan thì phức tạp hơn, khi đi ra mộ thì chỉ nói đến một người (Ga 20,1) còn khi thuật lại cho các môn đệ thì lại dùng danh từ số nhiều (“chúng tôi không biết… Ga 20,2). Về động cơ đi ra mộ, Marco và Luca thì cho biết họ ra mộ để xức xác Chúa, trong khi Matthêu thì chỉ nói ra xem mộ. Marco cho biết, sau khi được cho biết là Chúa đã sống lại, các phụ nữ hoảng sợ và bỏ đi (16,8), còn Matthêu thì nói rằng họ chạy đi nói cho các môn đệ biết (28,8). Mt 28,2-5 cho biết có một thiên thần hiện đến báo tin, Marco (16,5) chỉ nói là một thanh niên ngồi ở vị trí để xác Chúa, còn Luca (24,3) và Gioan (20,11) thì nói đến hai thiên thần. Ngoài ra, chỉ có Tin Mừng Nhất Lãm là đề cập đến chuyện các thiên thần bảo các phụ nữ đi nói cho các môn đệ biết, trong khi tin mừng thứ tư thì chính Đức Giê-su phục sinh hiện ra với Maria Madalena, trò chuyện với bà, sau đó mới sai bà đi nói với các môn đệ.
Tin Mừng Marco được viết sớm nhất và được xem là nguồn để Mattheo và Luca dựa vào đó mà viết Tin Mừng của mình. Theo các học giả Kinh Thánh, Tin Mừng Marco trong bản gốc không có đoạn 16,9-20, đoạn nói về việc Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ. Như thế, dưới cái nhìn nguyên thuỷ của Marco, thông tin về việc Đức Giê-su phục sinh đã khiến cho các phụ nữ vô cùng sợ hãi, đến độ chẳng nói gì với ai (Mc 16,8), và cuốn Tin Mừng của Marco kết thúc ở đây. Các Tin Mừng khác lần lượt thuật lại những gì diễn ra sau đó. Khi được các phụ nữ báo tin, các môn đệ cho rằng đó là điều vớ vẩn và không tin. Nhưng sau đó, theo Luca (24,12) thì Phêrô đã chạy ra mộ để kiểm chứng và trở về trong sự ngạc nhiên, còn Gioan thì cho biết ngoài Phêrô ra, còn có một môn đệ khác (Ga 20,3). Họ đã ra mộ nhưng không thấy Đức Giê-su phục sinh mà chỉ thấy “các băng vải và khăn che đầu” của Đức Giê-su (Ga 20, 6-7).
Đức Giê-su phục sinh đã chính thức hiện ra với các ông vào buổi chiều ngày hôm đó (Ga 20,19). Luca thì cho rằng trước khi hiện ra với các môn đệ, Đức Giê-su đã tỏ mình ra với hai môn đệ trên đường trở về Emmaus, đã trò chuyện với các ông nhưng hai ông không nhận ra Người cho đến khi Người bẻ bánh. (Lc 24,13-35). Gioan tiếp tục câu chuyện khi thuật lại rằng Đức Giê-su đã hiện ra với các môn đệ khi các cửa đều đóng kín, lần thứ nhất không có Toma (Ga 20,19-23) và lần thứ hai có Toma (Ga 20,24-29). Chương 21 của Tin Mừng Gioan thuật lại cho chúng ta một câu chuyện rất đẹp khi Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ tại biển hồ Galile sau một đêm họ đánh bắt cá thất bại. Có lẽ chứng nhân trong Kinh Thánh cuối cùng được diện kiến sự tỏ mình của Đức Giê-su phục sinh là Phaolo, khi ông đang trên đường đến Damat để bách hại các Kito hữu (Cv 9,1-9). Chính Phaolo cũng đã thuật lại các cuộc hiện ra của Đức Giê-su sau khi Ngài phục sinh trong thư gửi tín hữu Corinto: “Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ.” (1Cr 15,5-8). Tất cả những lần hiện ra này của Đức Giê-su hệt như một sự xác nhận cho những gì Đức Giê-su đã tiên báo trước khi bước vào cuộc khổ nạn: rồi ngày thứ ba, Con Người sẽ sống lại (Mc 8,31).
Nhưng có khi nào Đức Giê-su chỉ giả vờ chết rồi tỉnh dậy rồi bỏ trốn thì sao? Biết đâu Ngài chỉ ngất đi hoặc chết lâm sàn thôi thì sao? Hoặc có thể các môn đệ đánh cắp xác của Ngài, rồi tung tin Ngài đã phục sinh? Biết đâu chuyện hiện ra chỉ là ảo giác của các ông?
Kinh Thánh không cho chúng ta câu trả lời, nhưng các nhà hộ giáo thì có. Các nhà hộ giáo nói gì?
Phục sinh là gì? Làm sao biết Đức Giê-su đã phục sinh thật sự?)
Phục sinh là gì? Chẳng ai trong chúng ta có kinh nghiệm phục sinh giống như Đức Giêsu cả. Có thể có nhiều người chết lâm sàng, rồi sống lại. Cũng có những người đã chết thật rồi sống lại (như Ladaro hay con trai bà goá thành Nain mà Tin Mừng nói đến). Nhưng việc sống lại này không phải là phục sinh, vì chính những người này sẽ phải chết thật một lần nữa, thân xác họ sẽ bị chôn vùi và mục rửa, khi tuổi đời chấm dứt. Còn với Đức Giêsu, Ngài đã đi vào một sự sống mới, không bao giờ phải chết nữa, thân xác Ngài cũng không bị huỷ hoại. Ngài vẫn là Ngài nhưng Ngài không còn giống như Ngài trước kia. Chính sự phục sinh này của Ngài đã là niềm hy vọng lớn lao của con người, và niềm hy vọng này đã giúp khai sinh Ki-tô giáo.
Tạm thời không bàn đến chuyện đức tin, nhiều người đã đặt vấn đề là liệu Đức Giêsu có phục sinh theo kiểu mà chúng ta vừa nói thật không. Một bằng chứng rõ ràng và thuyết phục nhất (dù chưa đầy đủ) chứng minh cho chuyện Ngài đã sống lại là việc người ta không thể tìm thấy được xác của Ngài. Tất cả mọi vĩ nhân trên thế giới này đều đã chết và thân xác của họ vẫn còn được xác định. Còn Đức Giêsu thì không. Các môn đệ sẽ không thể bịa chuyện rằng Đức Giêsu đã phục sinh và hiện ra với mình vì chỉ cần lính Rôma trưng dẫn cái xác là mọi chuyện sẽ được giải quyết.
Nhưng biết đâu các môn đệ đã đánh cắp cái xác thì sao? Điều này càng khó có thể xảy ra hơn nữa. Khi Đức Giêsu bị bắt và hành hình, ai trong các ông cũng sợ đến nỗi bỏ chạy. Phêrô còn không dám thừa nhận rằng mình có liên quan với ông Giêsu. Ngay cả sau đó, các ông vẫn còn nhốt mình trong phòng vì sợ thì làm sao dám cả gan đi đánh cắp xác Thầy tại một ngôi mộ có lính La Mã được trang bị vũ khí canh giữ. Ngoài ra, chúng ta cũng không tìm thấy lý do gì để các ông phải liều mạng làm chuyện này. Các ông không thể tự dưng đi đánh cắp cái xác, giấu một nơi không ai biết, rồi bịa chuyện Thầy Giêsu sống lại, sau đó chịu chết vì câu chuyện tưởng tượng ấy: người thì bị chặt đầu, người thì bị đóng đi, người thì bị tùng xẻo… Hơn nữa, nếu đây là một âm mưu tập thể thì chỉ cần một người trong số họ khai ra sự thật thì kế hoạch sẽ vỡ tan tành. Các ông lại là những ngư phủ thất học, làm sao có thể nghĩ đến và bịa ra một câu chuyện về sự phục sinh mà đến nay chúng ta còn không biết nó là cái gì. Vả lại, nếu các ông bịa chuyện thì không nên đưa phụ nữ vào vì thời đó chẳng ai tin lời một phụ nữ. Ngoài ra, các ông cũng không thể bịa chuyện Đức Giêsu hiện ra với mình vì Đức Giêsu không chỉ hiện ra với các ông mà còn với nhiều người khác, trong đó có một người rất thù ghét Kitô giáo là Phaolo. Chính Phaolo đã dành trọn cuộc đời còn lại của mình để làm chứng về sự phục sinh của Đức Giêsu. Thậm chí, ông đã chết vì sự thật ấy. Những bằng chứng này cho thấy, các môn đệ không thể đánh cắp xác chết của Đức Giêsu rồi bịa chuyện được.
Có thể có trường hợp Đức Giêsu đã không chết, ngài chỉ ngất đi, hoặc chết lâm sàng thôi, rồi sau khi được đưa xuống thập giá vào đem vào mộ, Ngài đã tỉnh lại và bỏ trốn? Nghĩ như vậy có được không? Giả thuyết này cũng không vững, vì có nhiều bằng chứng cho thấy Đức Giêsu đã chết thật. Theo luật, lính La Mã phải kiểm tra rất kỹ rằng tử tù phải chết rồi thì mới cho tháo xuống khỏi thập giá, còn không thì phải đập dập ống chân tử tù để hắn ta không thể bỏ trốn. Việc Đức Giêsu không bị đập dập ống chân (Ga 19,31-33) cho thấy lính La Mã xác nhận rằng Ngài đã chết. Lính La Mã sẽ phải lãnh cái chết nếu không kiểm tra cẩn thận. Như thế, hẳn là anh lính này phải rất cẩn trọng. Gioan cũng thấy máu và nước chảy ra từ cạnh sườn (Ga 19,34-35), điều này cho thấy phổi của Ngài đã bị ép và không thể hoạt động được nữa. Giả như đến đây Ngài vẫn chưa chết thì Ngài cũng không thể thở được khi bị những tấm vải liệm quấn lấy từ đầu đến chân và bị đặt trong một khe đá kín (Ga 19,38-42). Hơn nữa, một thân xác tàn tạ sau khi bị đánh đập và đóng đinh như thế thì sao có thể đẩy nỗi tảng đá lớn lấp mộ mà không bị lính La Mã đứng canh phát hiện. Giả như Ngài có làm được thì Ngài đã đi đâu, làm gì? Tại sao không ai thấy? Và quan trọng hơn nữa, một con người sống dở chết dở, thân bại danh liệt như thế, vốn dĩ đã làm cho các môn đệ thất vọng tràn trề, làm sao có thể khiến bao nhiêu người sẵn sàng bịa chuyện rồi chết vì mình với một sự can đảm và khảng khái như vậy. Bởi vậy, giả thuyết cho rằng Đức Giêsu không chết hoặc chỉ chết lâm sàng không đáng tin.
Một chứng cứ rất hùng hồn để chứng minh cho sự phục sinh của Đức Giêsu chính là những lần Ngài hiện ra, cùng ăn uống, trò chuyện, chia sẻ, giảng dạy và ban thêm sức mạnh cho các ông. Chỉ có thể là Đấng Phục Sinh mới khiến cho các ông mở toang cánh cửa sợ sệt để hiên ngang ra ngoài trước đám đông mà giảng dạy. Chỉ có thể là sức mạnh của Đấng Phục Sinh mới có thể giúp các ông được biến đổi từ trong ra ngoài: các ông có thể nói được nhiều ngôn ngữ, có thể làm các phép lạ, có thể mạnh dạn đối chất với các nhà cầm quyền, có thể có những lời nói làm say mê lòng người, cuốn hút họ và trao ban cho họ niềm tin. Trải qua hơn hai ngàn năm, đức tin này ngày càng được chứng thực bởi nhiều vị thánh, những người được ơn đụng chạm và cảm nghiệm nó trong một tương quan sâu sắc với Chúa. Và nhờ đó, nó vẫn trường tồn và thêm vững mạnh. Tất cả những điều tuyệt vời này không thể đến từ một câu chuyện huyền hoặc do một số người thất học bịa ra hay từ một cái xác không còn hình thù nằm trong nấm mồ hay một người giả vờ chết rồi sau đó trốn chui trốn nhũi. Nó chỉ có thể đến từ một Đấng đã phục sinh thật sự, đã đi vào trong sự sống vĩnh cữu của Thiên Chúa.
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ ( Trích trang Dòng Tên…)