Lời Tạ Ơn
Nhân Ngày Giỗ Cha
Già Kiều
Sáng nay tôi gọi về Việt Nam cho Mẹ, Mẹ nhắc 28 tháng Tư là ngày giỗ Cha Già
Kiều, nhớ đi lễ cầu nguyện cho Cha và xin ơn nghe con. Tôi nhìn lên tấm lịch,
chỉ còn vài ngày là tới 28 tháng Tư, ngày giỗ Cha Già Kiều mà hầu như bà con ở
Bình Giả đều nhớ. Từ nhỏ mẹ tôi đã luôn nhắc đến ngày giỗ của Cha. Ngày 28 tháng
Tư đã ghi sâu vào trí nhớ của nhiều nguời dân Làng Một chúng tôi nói riêng và cả
ba làng ở Bình Giả nói chung.
Ngày đó cũng là ngày dân trong làng trông chờ mưa xuống, vì có năm truớc ngày
giỗ Cha một tuần mưa lớn bà con kéo nhau đi trỉa đậu, trỉa bắp rồi mấy ngày sau
đó bị nắng. Vậy mà bà con ai nấy vẫn không lo sợ, vì tin rằng đến ngày giỗ Cha
Già thế nào cũng có mưa.
Thường thường ngày giỗ Cha trời âm u và hầu như năm nào cũng có mưa, có năm
thì mưa lớn, có năm mưa nhỏ. Những hạt mưa như mưa hồng ân đổ xuống, bao nhiêu
hạt đậu và hạt bắp đuợc tưới mát và nẩy mầm.
Từ ngày Cha Già nằm xuống, ngôi mộ Cha nằm truớc nhà Thờ Xứ tôi, ngày nào
cũng có nguời đến cầu xin, cầu nguỵện cho Cha. Đa số nguời ta đến xin ơn, hình
như những lời cầu xin của con chiên xứ Bình nhờ Cha Già chuyển lên Thiên Chúa
đều đuợc Chúa nhậm lời.
Khi còn ở tuổi thiếu nữ mỗi lần đi lên nhà xứ tập hát hay dự họp Hội Con Đức
Mẹ hằng tháng, tôi hay ra mộ Cha như là một thói quen. Tôi vẫn đứng tựa vào hàng
rào song sắt nhìn ngắm hình Cha, và đọc những bảng Tạ Ơn. Nhiều tấm bảng ghi chữ
TẠ ƠN CHA đuợc dựng chung quanh mộ Cha Già, tôi nghĩ chắc có nhiều nguời xin
đuợc ơn lắm nên mới có nhiều bảng Tạ Ơn như vậy. Phía truớc mộ Cha, nhìn bên
phải có cây hoa kèn bông màu vàng, bên trái là cây hoa sứ trắng, nhưng ít khi ai
thấy hai cây hoa nầy đầy đủ lá và bông, vì bà con đến xin ơn rồi hái lá và bông
về làm thuốc, nào là sắc nuớc uống hết đau bụng nào là xông hết cảm hàn,…
Những cây mọc gần mộ Cha Già cùng góp phần trong ơn chữa bịnh của Cha Già.
Tôi nhớ lại chuyện năm đó gia đình tôi bị mất con bò.
Sau năm 1975, gia đinh tôi từ tỉnh thành dời về sống tại Làng Một, Bình Giả. Phải mất hai năm trời làm lụng cực nhọc, gia đinh tôi mới có đủ tiền mua một con
bò. Thật ra lúc đó nó chỉ là con bê đực khoảng một năm tuổi. Khi đem con bò về
ba tôi nói nó thuộc loại bò chứng, vì nó có một cái xoáy nguợc bên hông trái. Nhờ cái xoáy đó nên chủ họ bớt tiền, ba tôi mới mua nổi nó.
Nhìn con bò ai cũng khen. Nó có bốn cẳng cao, to, mình dài và bộ lông vàng
óng của nó trông rất đẹp mắt. Tôi đuợc giao nhiệm vụ đi chăn con bò, vì hai anh
lớn của tôi phải phụ ba mẹ làm rẫy, hai đứa em nhỏ còn tuổi đi học.
Từ nhỏ sống ở trên tỉnh, nên chưa từng có cơ hội thấy tận mắt con bò chứ đừng
nói là chăn nó. Hằng ngày chỉ có một công việc là dắt bò vào rẫy cho ăn no, rồi
chiều dắt về. Vậy mà không ngày nào mà tôi không bị nguời nầy mắng vốn nguời kia
doạ nạt. Chẳng bù lại những đứa bạn cùng lứa tuổi với tôi, tụi nó chăn một lần
5, 6 con – nào là bò mẹ, bò con, nào là bò kéo – khi lùa đàn bò vào rẫy cả đàn
đi đúng trật tự, đàng hoàng.
Có một hôm đang dắt con bê vào rẫy bỗng nó giựt dây chạy nhanh về phía truớc,
khi tôi đuổi theo kịp thì nó đã liếm sạch hai hàng lúa của ruộng ông Năm. Ông
Năm tay cầm luỡi liềm, miệng la om sòm: “Ông mà biết bò của đứa nào ông chặt gãy
chân, liệu mà đền hai hàng lúa cho ông.” Tôi sợ tím mặt, chỉ biết đứng đó khóc. Nhưng khi ông Năm thấy tôi, ông nguôi giận và mặt ông tươi hẳn lên, ông hỏi: “Bò
của cháu đó rưng?” Tôi rụt rè trả lời: “Dạ con bò ba con mới mua.” Ông nói:
“Không can chi mô, nó ăn có mấy bụi lúa, để ông dặm lại.” Hú hồn tôi đập bò đi
nhanh vô rẫy như sợ ông năm đổi ý, trong lòng không khỏi thắc mắc sao ông Năm
không la mình nữa.
Rồi cái ngày không may đó đã đến. Hôm đó, như thuờng lệ tôi dắt bò vào rẫy,
cắt cỏ cho nó ăn no rồi cột vào một gốc cây, tìm một bóng mát gần đó ngồi ngân
nga bài hát: “Khung cửa sổ hai nguời cuối phố,chẳng hiểu vì sao không khép bao
giờ…” Hồi đó, bọn con gái chúng tôi mê bài hát nầy lắm, nhưng không có CD hay
là cassete chỉ nghe bằng Radio.
Đang say sưa thả hồn theo tiếng hát, chợt tôi nhìn lên phía gốc cây cột con
bò, nó đã biến đâu mất. Lúc đó tôi nghĩ nó chỉ bứt dây chạy sang rẫy nhà bên
cạnh ăn bắp ăn đậu của họ thôi. Nhưng…con bò của tôi nó hoàn toàn mất dạng. Tôi hoảng sợ chạy hết cánh rừng bên phải rồi chạy sang bên trái. Tôi tìm nó hết
cả buổi chiều cho tới lúc mặt trời bắt đầu lặn nhưng không thấy. Tôi không dám
về nhà vì sợ bị gia đình la. Đứng một mình trong rừng càng sợ hơn, cuối cùng tôi
lê đôi chân mỏi mệt trở về nhà. Vừa về tới đầu làng tôi đã thấy ba tôi và các
anh đang cầm đuốc đi vào rẫy tìm tôi.
Khi tôi cho biết con bò đã thất lạc, việc đầu tiên ba tôi làm là bảo mẹ tôi
lên mộ Cha Kiều xin khấn. Mẹ tôi không nói không rằng đi ngay lên mộ Cha Già cầu
xin cho gia đình tôi tìm lại dược con bò.
Sáng hôm sau ba tôi và hai anh lớn dậy sớm đi vào rừng tìm bò, với một lòng
cậy tin vì đã khấn Cha Kiều thì thế nào cũng tìm thấy.
Một ngày trôi qua, mãi đến chiều tối mới thấy ba cha con trở về. Nhìn dáng Ba
thất thểu tôi biết là chưa tìm được con bò. Sang ngày thứ hai, bà con thân thuộc
cùng đến phụ đi tìm, đến chiều mọi người đều trở về tay không. Lòng tôi vừa lo
vừa buồn, tôi còn có ý trách Cha Già sao không cho gia đình con tìm thấy con bò.
Rồi sang ngày thứ ba, bà con hàng xóm kéo đến nhà tôi, mọi người chia nhau ra
nhiều lối để đi tìm bò, mấy mẹ con chúng tôi ở nhà chờ tin nhưng… cũng như mấy
hôm trước con bò vẫn mất tăm mất dạng, không tìm thấy. Dù đã ba ngày trôi qua,
nhưng mới tản sáng ngày hôm sau tôi đã thấy ba tôi dậy sớm, chuẩn bị mang theo
cơm nước. Ba tôi nói: “Con bò nầy chắc là chạy ra khỏi Bình Giả rồi, hôm nay đi
ra Suối Nghệ kiếm thử coi.” Hôm đó chỉ có ba cha con gia đình tôi và hai cha con
ông Năm đến đi kiếm phụ. Sau nầy tôi mới được biết con trai ông Năm có ý muốn
“làm quen” với tôi. Thảo nào hôm con bò ăn lúa, nhưng ông Năm chịu bỏ qua cho
tôi. Kết quả ngày đi kiếm bò hôm đó cũng như những ngày trước. Bà con hàng xóm
đã có người nói: “Thôi đi tìm chi cho nhọc công, chắc người ta bắt bán vô lò mổ
rồi!” Tôi thấy tinh thần hăng hái đi tìm bò của gia đình đã giảm xuống rõ rệt. Qua ngày thứ năm, anh em bà con cũng không còn ai đến nhà tôi để đi tìm bò nữa,
vì họ cũng có công việc nhà cần làm. Mẹ tôi cũng đã nản lòng và mệt mỏi, vì ngày
nào mẹ cũng phải dậy sớm lo cơm nước cho mọi người mang theo, buổi chiều lại
chuẩn bị cơm để mọi người trở về dùng. Mẹ tôi nói với Ba tôi: “Thôi đừng tìm con
bò nữa, coi như của mất thay người!”
Tôi còn nhớ bầu không khí gia đình tôi lúc đó giống như nhà có tang chế,
không ai còn muốn nói chuyện với ai, mất con bò mà như mất một người thân. Riêng
Ba tôi vẫn giữ nguyên lập trường là con bò vẫn còn sống, nên ngày kế đó Ba tôi
lặng lẽ dắt chiếc xe đạp với một bi đông nước ra đi, không biết ông đi về hướng
nào. Hôm đó cũng là ngày tới phiên nhóm thiếu nữ của tôi quét nhà thờ. Nhà thờ
xứ vừa rộng và dài, nên mỗi lần quét phải cần đến ba, bốn người mới xong. Vừa đi
đến nhà thờ, hai nhỏ bạn chạy vô nhà xứ lấy chìa khoá, tôi đứng chờ trước hiên
nhà thờ, tôi chợt nhìn ra ngoài mộ Cha Già, “Ờ nhỉ, sao mình không ra mộ Cha
khấn thêm một lần nữa,” tôi nghĩ thầm, dù Mẹ đã đến mộ Cha khấn rồi. Nghĩ là
làm. Tôi chạy nhanh ra đứng trước Mộ Cha. Hôm đó sao nhìn hình Cha tôi cảm nhận
như có một chút trách móc từ ánh mắt của Cha, tôi không biết phải bắt đầu từ đâu
để cầu xin cùng Cha. Đang bối rối với bao ý nghĩ, chợt tôi nghe tiếng một đứa bé
trai nói oang oang: “Lạy Cha Già Phêrô xin cho con heo mạ nhà con đẻ được bằng
an con cám ơn Cha Già Phêrô.” Cầu nguyện xong cậu bé làm dấu vội vã, rồi chạy
nhanh ra đường hòa vào với nhóm bạn đang chơi đá banh.
Nghe những tiếng cầu nguyện đơn sơ của cậu bé, tôi mới cảm thấy mình lo xa
quá, hồi nãy tới giờ đứng trước mộ Cha mà không mở được một lời cầu xin nào.
Phải! Tại sao không dặt hết niềm tin và phó thác hết những nỗi lo âu cho Cha.
Tôi bắt chước cậu bé lớn tiếng cầu xin: “Lạy Cha Già Phêrô xin cho ba con tìm
lại được con bò vì nó là cả gia tài, là niềm vui trong cuộc sống nông dân của
gia đình con.” Như cậu bé, tôi làm dấu và đi vô nhà thờ cùng với các bạn quét
nhà thờ một cách vui vẻ.
Đúng như lời Chúa nói trong Phúc Âm: “Ai xin thì sẽ được, ai cầu thì sẽ cho.” Đến chiều, Ba tôi một tay dắt chiếc xe đạp, một tay dắt con bò về. Bà con hàng
xóm đều chạy đến hỏi thăm. Ba tôi vừa cười vừa nói: “Hôm nay tôi trở ra lại Suối
Nghệ tìm con bò, không hiểu sao tôi cứ linh tính con bò ở ngoài đó, Tìm hoài đến
quá trưa vẫn không thấy, tôi đã nản lòng định ghé vào quán nước uống một ly nước
rồi quay về, chợt có một thằng bé trạc 10 tuổi chạy lại hỏi: ‘Có phải ông đi tìm
bò không?’ Tôi nói: ‘Phải! Cháu thấy có con bò nào hả?’ Nó nói: ‘Dạ con thấy cái
nhà đằng kia cột một con bò màu vàng ba, bốn ngày nay rồi.’ Nghe nói con bò
vàng, tôi mừng quá, cám ơn cậu bé và đạp xe lại nhà mà cậu bé chỉ thì thấy đúng
ngay con bò của mình. Vào nhà hỏi thăm thì chủ nhà họ cho biết con bò chạy vào
rẫy của họ và cứ lẩn quẩn ở đó, mãi đến chiều không thấy ai đến bắt, nên họ dắt
nó về cột ở đó. Sáng nay họ định đem nó ra lò mổ bán, nhưng ông chủ nhà bỗng bị
đau bụng, nên đợi đến chiều mới đi, chưa kịp đi thì tôi đến.’’ Kể đến đây Ba tôi
như chợt nhớ điều gì, ông nói: “Con bò nầy tìm được là nhờ Cha Kiều giữ lại,
khiến cho ông đó đau bụng, chứ không họ đem bán cho lò mổ rồi!”
Tôi cũng thầm TẠ ƠN CHA, Ngài đã nhận lời con cầu xin, một lời cầu xin thật
đơn sơ phải không Cha.
TẠ ƠN CHA! Thưa Cha Già yêu dấu, Ngài là chiếc cầu linh thiêng nối bao nhiêu
nỗi khổ của mọi gia đình chúng con lên đến cùng Thiên Chúa. Ai cũng có những ưu
tư riêng, từng người, từng gia đình chạy đến cùng Cha và Cha vẫn âm thầm giúp đỡ
họ.
Xin dâng lên Cha một lời tạ ơn trong ngày giỗ của Cha.
Cuối tháng Tư năm 2005
Mái Tóc Thề