MAI
EM VỀ LẠI QUÊ XƯA
Kính nhớ
Cậu,
Kính tặng Bà con Gia Hòa,
Kính tặng Mẹ và AnhNguyễn
Songlam
Mai em về lại cố hương
Đôi dòng tâm sự tạ cùng núi sông
Chim đàn xa tổ xa tông
Trông về đất mẹ nỗi lòng chơ vơ.
Quê hương xa mấy bến
bờ
Cây đa Bến Thủy ai chờ ai mong (1)
Lam giang nước vẫn xuôi dòng
Trôi về biển cả mà lòng nào vơi !
“Nghi Xuân bát
cảnh” tuyệt vời (2)
Non xanh nước biếc nối trời biển đông
Ai lên Ngũ Mã truy phong (3)
Xem hòn Cô Độc nặng lòng nước non. (4)
Chín mươi chín ngọn
núi Hồng
Đất lành chim đậu, tiên rồng dừng chân (5)
Trời Hà Tĩnh, đất Nghi Xuân
Quê hương nhân nghĩa sắt son bao đời.
Em về vật đổi sao
dời
Nắng mưa biết có tiếc thời ấu thơ
Sông quê nước chảy lững lờ
Nước trôi trôi mãi có chờ ai đâu !
Em về qua bến Lâm
Lưu (6)
Tìm đôi mắt mẹ giữa bầu trời sao
Em về tìm lại vườn dâu
Thân tằm bóng mẹ giãi dầu nắng mưa.
Mai em về lại làng
xưa
Qua cồn cát trắng vi vu lau già (7)
Lắng nghe tiếng mẹ gọi cha :
“Sao anh nỡ bỏ mẹ già con thơ!” (8)
Em về thăm lại đồng
xưa
Đồng sâu, đồng cạn nhớ mùa nước lên
Đất lành như vú mẹ hiền
Từng đàn rươi mọc tựa ngàn sao đêm. (9)
Em về tìm lại đồng
sim
Dấu chân thơ dại lắng chìm đâu đây
Tím sim tím cả những ngày
Anh thôi đi học, tập cày, chăn trâu.
Bên thềm gió đẩy cành
ngâu
Có hay hoa bí hoa bầu nhớ ai
Cô hàng xóm, chớm tóc mai
Nhác trông thấy bóng đã hoài tương tư !
Chiều này lại nhớ
chiều xưa
Ve đưa nhịp võng gió đưa câu hò :
“Thò tay mà bứt cọng ngò
Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ”. (10)
Bây giờ biết có như
xưa
Bóng chiều vừa đổ nhà thờ chuông ngân
Mẹ kinh hạt, em đánh vần
Tiếng em giọng mẹ rộn trên xóm làng.
Em về tìm lại vầng
trăng
Vầng soi em học, vầng dăng ngoài đồng
Ngoài đồng mẹ cấy lúa đông
Lúa đông hiu hắt se lòng bóng trăng
Em về nhìn lũy tre
làng
Bể dâu dâu bể vẫn vàng vẫn xanh (11)
Nước non xa mấy dặm ghềnh
Nước trôi ra biển thả hồn về non!
Bên bờ sông Seine,
tháng 4/2005
Nguyễn Songlam
CHÚ THÍCH : QUÊ HƯƠNG HỒNG
LAM
Lời nói đầu: Những
chú thích dưới đây về thắng cảnh của quê hương Hồng Lam được viết dựa theo lời
kể và những tài liệu viết tay mà cậu tôi đã để lại trước khi từ trần hồi tháng
năm, năm 2002. Cậu tôi là Giáo Sư Nguyễn Đình Hoan, Tiến sĩ Triết tại Sorbonne.
Trước năm 1975, Ông đã từng dạy tại các đại học Huế , Sài Gòn, Đà Lạt và Cần
Thơ.
(1) Cây đa, Bến thủy:
Quê tôi ở Gia Hòa, huyện Nghi Xuân,
tỉnh Hà Tĩnh, mạn Nam sông Lam. Làng tôi cách làng Tiên Điền của cụ Nguyễn Du
chỉ vài ba cây số. Quê ngoại tôi là làng Mỹ Dụ, bên kia bờ sông Lam, thuộc tỉnh
Nghệ An. Hai làng cách xa nhau lối 7 cây số. Tôi sinh ra và lớn lên ở Gia Hòa
đến năm 9-10 tuổi thì di cư vào Nam. Con đường về quê ngoại tuy chỉ 7 cây số,
nhưng với tầm mắt ấu thơ và bàn chân nhỏ dại của tôi lúc đó thì đã là một «vòng
địa cầu» rồi!
Mỗi lần về quê ngoại, từ Gia Hòa
phải đi qua một cây đa cổ thụ được gọi là cây Da Lách. Không biết đã có từ mấy
trăm năm về trước, nhưng trong não trạng của tôi lúc đó cây đa cổ thụ nầy đã
là hiện thân của thời kỳ «tạo thiên lập địa». Nó bệ vệ uy nghi như một vị thần
có bộ râu thật chắc và dài ngồi chổm chệ giữa đường Quốc Lộ 1 nối hai miền Nam
Bắc, và đường đi xuống Nghi Xuân phía cửa biển Hội Thống. Từ Gia Hòa đi bộ lên
đây đã mỏi mệt, tôi thường níu áo mẹ đòi ngồi xuống nghỉ chân dưới gốc cây đa,
xin gáo nước uống. Vừa có bóng nhim, vừa có gió mát từ sông Lam thổi lên. Cũng
có lúc thừa cơ hội mẹ mải mê trò chuyện, «thằng bé» dựa gốc cây đa ngủ luôn
để rồi khi tỉnh dậy thấy mình nhẹ nhàng trong đôi cánh tay của mẹ! Có lẽ trên
trái đất nầy không còn cái võng nào êm ái hơn là vòng tay mẹ hiền!
Khách từ bên nầy sông Lam mà qua
tỉnh Vinh, người và xe phải đi qua phà, gọi là phà Bến Thủy. Nay thì đã có cầu
nối liền hai bờ sông Lam.
Riêng mẹ con tôi về Mỹ Dụ thì vẫn
cứ tiếp tục cuốc bộ theo triền núi bên nầy sông Lam cho đến bến Lâm Lưu mới
lấy đưọc đò ngang để qua bên kia sông Lam.
(2) Nghi Xuân bát cảnh:
«Nghi Xuân Bát cảnh» là một tài liệu
mà cậu tôi đã dùng cùng với «Hồng Đức Bản Đồ» (Viện Khảo Cổ, BQGĐ, SG 1962)
để nói về quê hương Hồng Lam.
Nghi Xuân có nhiều kỳ quan mà đa
số nằm trong dãy núi Hồng Lĩnh. Dãy núi nầy có 99 đỉnh và mang hình một con
chim Hồng, đang bay lượn, đầu hướng về phía Bắc, thân và đuôi một phần nằm trong
địa giới huyện Can Lộc ; hai cánh nằm trong địa giới huyện Nghi Xuân. Chỗ cánh
chim giăng thẳng, song song với Lam Giang là chính vùng Hồng Lam. (Hồng là núi
Hồng Lĩnh ; Lam là Lam Giang) . Hồng Lam nổi tiếng là thơ mộng, đã từng được
các thi nhân như Lê Thánh Tôn, Bùi Dương Lịch, Nguyễn Huy Hổ (trong Mai Đình
Mộng Ký) và La Sơn Phu Tử…. ca tụng .
«Nghi Xuân bát cảnh» gồm có :
1) Song Ngư hý thủy : hai
hòn núi nhỏ mang hình hai con cá nằm lấp lững ngoài cửa biển Hội Thống.2) Cửu Long tranh châu :
trong dãy Hồng Lĩnh có 9 ngọn núi mang hình thù của 9 con rồng dang tranh
nhau một hạt ngọc .3) Bãi Phôi Phối : một thung
lũng nổi tiếng là đẹp trong dãy Hồng Lĩnh và chạy ra tận gần bờ biển vùng
Cương Gián (Nghi Xuân). Có thể đi từ làng Thượng Thôn, đi ngang thẳng vào
dãy Hồng Lĩnh thì gặp.4) Kê Quan Phong : nôm na
là núi Mồng Gà. Núi có hình mũ của các quan Đại triều thời xưa. Núi nằm trong
vùng Cương Gián.5) Phan Đãy Phong : dân
chúng thường gọi là hòn Rú Cơm vì nó có hình của một giỏ cơm. Núi nầy nằm
ngay trên bờ nam sông Lam, mà bên kia là phà Bến Thủy. Núi nằm kế cạnh cây
Da Lách, chỗ ngã ba đường Q.L.1 và đưòng đi xuống Gia Hoà, Nghi Xuân ( phía
Hội Thống).6) Núi Lưỡi Cày : núi có
hình thù một lưỡi cày thuộc dãy Hồng Lĩnh, nằm chếch ra ngoài biên, sát đường
Q.L.1. Nếu đi từ Bắc vào Nam thì núi nằm về phía tay trái và nằm giữa đoạn
đường từ ngã ba cây Da Lách và làng Uyên Trừng hay Kẻ Giằng, trước khi đến
núi Ngũ Mã.7) Ngũ Mã truy phong : một
hòn núi thuộc dãy Hồng Lĩnh mang hình 5 con ngựa đang đuổi theo gió. Chân
của hòn núi nầy ăn ra tận bờ sông Lam, chỗ có đường Q.L. 1 chạy qua. Núi có
tiếng rất linh về mặt Phong Thủy.8) Hòn Cô Độc : cô độc có
nghĩa là con trâu «Một», con trâu đi một mình, không theo đàn. Đây là một
hòn núi nhỏ nhưng đặc điểm của nó là ngâm một nửa mình dưới nước sông Lam.
Và theo dòng sông thì nó nằm phía dưới chân núi Ngũ Mã. Núi nằm trong địa
giới làng Xuân Trạch (Nghi Xuân). Khách từ bên Nghệ An muốn qua Nghi Xuân
hay Can Lộc thường lấy đò tại bến Cửa Khâu thuộc làng Cự Thôn (Hưng Nguyên,
Nghệ An) và đò sẽ đổ khách tại bến Lâm Lưu, ngay trên lưng Hòn Cô Độc.
(3) Ngũ Mã truy phong:
Xem chú thích 2-7 trên đây.
(4) Hòn Cô Độc:
Xem chú thích 2-8 trên đây.
(5) Đất lành chim đậu, tiên
rồng dừng chân:
– Đất lành chim đậu: Khái
niệm này xuất phát từ hình ảnh núi Hồng Lĩnh có hình một con chim Hồng đang
giăng cánh như đã nói ở phần 2 trên đây. Riêng Giáo Sư Nguyễn Đình Hoan, dựa
trên phong thủy và lịch sử của vùng nầy thì có lẽ phải thay thế hình ảnh chim
Hồng bằng chim Phượng Hoàng mới đúng hơn.– Khái niệm về Tiên: Khái
niệm này xuất phát từ yếu tố sau đây : sau lưng núi Ngũ Mã, trong dãy Hồng
Lĩnh, có hai chóp núi: Chóp Độn và Núi Khâu. Giữa hai chóp núi nầy có một
cái vực gọi là Vực Độn. Dân gian đều tin rằng đây là chỗ các chư Tiên gặp
nhau, hội họp, đánh cờ. Sử cũng chép là đã tìm thấy ở đây một bàn cờ tiên
và nhiều quân cờ tiên mà sử gọi là các “linh vật” nay đã “hóa thạch”.– Khái niệm về Rồng: Trong
dãy Hồng Lĩnh có 9 ngọn núi mang hình thù của 9 con rồng đang tranh nhau một
hạt ngọc.
(6) Bến Lâm Lưu:
Lâm lưu có nghĩa là ngâm mình giữa
dòng nuớc. Cả vùng nước sông Lam ở bờ nam, chỗ chân núi Ngũ Mã cho đến hòn Cô
Độc đều thuộc về bến Lâm Lưu.
Mẹ tôi quê ở Mỹ Dụ, bên bờ bắc sông
Lam thuộc tỉnh Nghệ An, lấy chồng về Gia Hòa, Nghi Xuân , Hà Tĩnh, bờ nam sông
Lam. Khi tôi mới chừng một tuổi thì ba tôi mất, mẹ tôi mới vừa đôi mươi. Đường
về quê ngoại , từ đó, đã trở thành con «đường mòn» của mẹ con tôi ; và cũng
là con đường sống, cả về mặt tinh thần, cả về mặt vật chất. Trên con đường nầy,
mẹ tôi đã từng đi ngược về xuôi buôn thúng bán bưng như hình ảnh «thân cò lặn
lội bờ sông…»
Có những buổi chiều, trời đã lấp
lánh sao, mẹ con tôi xuống đò ở bến Lâm Lưu. Trên đò, ngồi dựa vai mẹ, tôi ngước
mắt nhìn trời, nhìn sao, và lắm lúc bắt gặp đôi mắt mẹ tôi lấp lánh , giữa bầu
trời đầy sao ! Đó là ý nghĩa của hai câu thơ :
Em về ghé bến Lâm Lưu
Tìm đôi mắt mẹ giữa bầu trời sao
(7-8) Lao già:
Cây phi lao, gỗ to, lá nhỏ hình sợi
chỉ trông giống là thông. Cồn cát nầy là nơi an nghỉ của ông nội , bác và cha
tôi.
(9) Rươi:
Là một loại giun đất thân có nhiều
tơ nhỏ, giống như tằm nhưng nhiều màu sắc. Rươi thường xuất hiện ở những nơi
có hai dòng nước mặn ngọt hoà lẫn nhau. Ở Gia Hòa mùa rươi , khoảng tháng 9,
tháng 10 âm lịch, là những ngày hội. Dân chúng đưa nhau ra đồng hớt rươi về
làm chả, làm mắm. Chả rươi thơm ngon, ăn no mà vẩn còn thèm!
(10) Hai câu thơ nầy trích
trong Ca Dao
(11) Lũy tre làng…nửa
vàng nửa xanh:
Cây tre già, thân thì vàng mà lá
vẫn còn xanh , tôi dùng làm biểu tượng cho những giá trị siêu thời gian của
Tổ Tiên, Sông Núi.
BẢN ĐỒ VÙNG
HỒNG LAM
Tài liệu của Giáo Sư Nguyễn Đình Hoan